Lịch sử Thời_kỳ_Tăm_tối_(sử_học)

Thuật ngữ này đầu tiên được sử dụng để chỉ thời kỳ trung gian giữa thời kỳ cổ đại cổ điển và thời kỳ hiện đại. Vào thế kỷ 19, các học giả bắt đầu nhìn nhận các thành tựu của thời kỳ này trước thách thức của hình ảnh về một thời điểm đen tối và suy tàn. Ngày nay, các học giả không còn coi thuật ngữ trên để chỉ toàn bộ thời kỳ Trung Cổ mà khi sử dùng chủ yếu để ám chỉ Sơ kỳ Trung Cổ.

Sự trỗi dậy của ngành khảo cổ học vào thế kỷ 20 đã soi sáng về thời kỳ Tăm tối, nhờ đó mà chúng ta hiểu được nhiều khía cạnh về các thành tựu trong đó. Các thuật ngữ khác trong nghiên cứu phân chia thời kỳ đã được biết đến như: Hậu kỳ cổ đại, Sơ kỳ Trung Cổ, hoặc Giai Đoạn Di cư, tùy theo khía cạnh văn hóa nào được nhấn mạnh. Hiện nay, trong một vài trường hợp khi sử dụng, các nhà sử học thường có ý trung lập và hàm ý rằng thời kỳ này "tăm tối" là do hiếm các ghi chép lịch sử và thành tựu về văn hóa và nghệ thuật.

Petrarca

Ý tưởng về "thời kỳ Tăm tối" bắt nguồn từ một nhà thơ người Ý, Francesco Petrarca, và những năm 1330. Khi viết về thời kỳ trước đó, ông viết:"Trong các sai lầm lại có những thiên tài soi sáng; đôi mắt cừ khôi nhưng lại bị che lấp bởi cái ác và bóng tối dày đặc". Các nhà văn Kitô Giáo, bao gồm cả Petrarca, đã từ lâu sử dụng sự ẩn dụ truyền thồng về "ánh sáng và bóng tối" để mô tả "cái thiệncái ác". Petrarca là người đầu tiên đưa nghĩa ẩn dụ ra khỏi tôn giáo bằng cách đảo ngược cách sử dụng của nó. Ông nhìn nhận thời kỳ cổ đại cổ điển, đã từ lâu được coi là thời kỳ "tăm tối" do thiếu đi Kitô Giáo, trong "ánh sáng" của thành tựu văn hóa của nó, trong khi thời kỳ của ông, được tin là thiếu thành tựu văn hóa, đã được nhìn nhận là thời kỳ tăm tối.

Bức vẽ Triumph of Christianity - Chiến thắng của Kitô Giáo của Tommaso Laureti (1530–1602)

Từ quan điểm của ông về bán đảo Ý, ông nhìn nhận người Rô-ma và thời kỳ cổ điển như định nghĩa về sự vĩ đại. Ông dành phần lớn thời gian đi khắp Châu Âu, tìm lại và xuất bản lại các văn bản tiếng Latin và Hy Lạp với mong muốn phục hồi sự trong sáng của tiếng Latin. Những người theo chủ nghĩa nhân văn thời kỳ Phục Hưng nhìn nhận 900 năm của thời kỳ trước đó là thời gian của sự trì trệ với lịch sử ghi chép lại không khớp với phác thảo "Sáu thời kỳ của thế giới" của Thánh Augustinô, nhưng lại theo khía cạnh văn hóa (ngoài tôn giáo) thông qua các sự trải qua sự phát triển tiến bộ về tư tưởng cổ điển, văn học và nghệ thuật.

Petrarca viết lịch sử thành hai giai đoạn: giai đoạn cổ điển của người Hy Lạp và Rô-ma, tiếp theo đó là thời kỳ tăm tối mà ông đang sống. Trong khoảng năm 1343, khi kết thúc bản sử thi Africa, ông có viết:"Số phận của ta là phải sống trong những cơn giông tố thất thường và khó hiểu. Nhưng đối với ngươi, ta hy vọng và chúc ngươi sẽ sống lâu hơn ta, và tương lai sẽ xuất hiện thời kỳ tốt đẹp hơn. Giấc ngủ quên này sẽ không kéo dài mãi mãi. Khi bóng tối đã tan biến, hậu duệ của chúng ta sẽ quay lại ánh hào quang rực rỡ ban đầu". Vào thế kỷ 15, hai nhà sử học, Leonardo Bruni và Flavio Biondo, đã phát triển lịch sử phác thảo thành 3 giai đoạn. Hai ông đã sử dụng hai giai đoạn của Petrarca thêm với giai đoạn hiện đại, "tốt đẹp hơn" mà họ tin rằng thế giới đang bước vào. Các cách gọi sau này như media tempestas (1469) hoặc medium aevum (1604) đã được dùng để mô tả thời kỳ được cho là suy tàn.

Cải cách

Trong các cuộc Cải cách vào thế kỷ 16 và 17, tín đồ theo đạo Tin Lành thường có quan điểm giống với  những người theo chủ nghĩa nhân văn Phục Hưng như Petrarch, nhưng cũng kèm theo quan điểm bài trừ Công giáo. Họ coi Cổ điển Cổ đại như thời kỳ hoàng kim không chỉ vì nền văn học Latin mà còn là vì đây là thời kỳ chứng kiến sự ra đời của Kitô Giáo. Quan điểm về "Thời kỳ Trung Cổ" là thời khắc của bóng tối đã được quảng bá, một phần cũng là do sự tha hóa trong Giáo hội Cơ Đốc giáo, ví dụ như: Giáo hoàng cai quản như vua, sự sùng kính của các di vật của các Thánh, các tư tế không kết hôn, và thể chế hóa đạo đức giả

Baronius

Đáp trả lại quan điểm của tín đồ Tin Lành, tín đồ Công giáo đã phát triển hình tượng tương phản để mô tả Trung kỳ Trung Cổ đặc biệt là như thời kỳ giao hòa giữa xã hội và tôn giáo, trái với định nghĩa "tăm tối". Lời đáp trả quan trọng nhất với cuốn "Magdeburg Centuries", một cuốn sách về lịch sử Giáo hội học, là cuốn "Annales Ecclesiastici" của Hồng y Caesar Baronius. Baronius là một nhà sử học lão luyện với các tác phẩm mà Bách khoa toàn thư Britannica (1911) mô tả là "vượt qua tất cả những gì trước đó" và rằng Acton được xem là "cuốn sách lịch sử vĩ đại nhất của Giáo hội từng được viết". Cuốn Annales ghi lại 12 thế kỷ đầu của Thiên Chúa Giáo đến năm 1198 và được phát hành trong 12 tập từ năm 1588 đến 1607. Chỉ cho đến tập thứ 10 mà Baronius đặt ra thuật ngữ "Thời kỳ Tăm tối" dành cho thời kỳ từ cuối Đế chế Carolingian vào năm 888 và  lần đầu tiên dấy lên Cải cách Gregorian dưới thời Giáo hoàng Clement II vào năm 1046:

"Một kỷ nguyên mới (saeculum) đã bắt đầu bởi cái thiện cũng thô ráp và khô khan như sắt đá vậy, bởi sự thiếu cao quý và vẻ màu xám xấu xa, và hơn tất cả là do nó thiếu các nhà văn (inopia scriptorum), sự tăm tối (obscurum)".

Quan trọng là, Baronius định nghĩa thời kỳ này "tăm tối" vì nó khan hiếm các bản ghi chép. Khi nhắc tới việc "thiếu các nhà văn", ông có thể là đang so sánh số lượng tập sách trong Patrologia Latina của Migne chứa các tác phẩm của nhà văn tiếng Latin từ thế kỷ thứ 10 (thời điểm trung tâm của thời kỳ mà ông mô tả là "tăm tối") so với số lượng  tác phẩm của các nhà văn từ các thế kỷ trước và nối tiếp đó. Rất ít trong số các nhà văn thời kỳ đó là nhà sử học.

Thời kỳ Tăm tối theo Baronius có vẻ đã khiến các nhà sử học thế kỷ 17 chú ý, khi mà thuật ngữ này đã nhân rộng trong các ngôn ngữ ở Châu Âu khác nhau với từ gốc tiếng Latin "saeculum obscurum " của ông đã bị đảo ngược đối với thời kỳ mà ông nhắc đến. Nhưng trong khi một số nhà sử học, nghe theo Baronius, sử dụng một cách trung lập thuật ngữ "thời kỳ tăm tối" để đề cập đến sự khan hiếm các bản ghi chép, các nhà sử gọc khác lại sử dụng nó để miệt thị, gần như sa vào sự thiếu khách quan và làm xấu thuất ngữ này trong mắt nhiều nhà sử học hiện đại.

Nhà sử học người Anh đầu tiên sử dụng thuật ngữ trên rất có thể là Gilbert Burnet, với cụm từ "thời kỳ tăm tối hơn" mà xuất hiện một số lần trong tác phẩm của ông trong thế kỷ 17. Lần đề cập sớm nhất có vẻ như nằm trong "Epistle Dedicatory" từ tập I của cuốn "Lịch sử cải cách của Giáo hội nước Anh" (History of the Reformation of the Church of England) vào năm 1679, trong đó ông viết: "Cấu trúc của cuộc cải cách là để phục hồi Kitô giáo về tình trạng sơ khai và loại bỏ tất cả những kẻ tha hóa mà đầy rẫy trong các thời kỳ tăm tối hơn trước đó." Ông đã một lần nữa sử dụng vào năm 1682 trong tập II trong đó ông gạt bỏ huyền thoại "Cuộc chiến của Thánh George với rồng" bằng cách viết "một huyền thoại được nghĩ ra trong thời kỳ tăm tối để ủng hộ sự hài hước của tinh thần hiệp sỹ". Một giám mục là Burnet đã ghi chép lại cách mà nước Anh đi theo đạo Tin Lành và cách sử dụng của ông về thuật ngữ trên luôn mang nghĩa xấu.

Thời kỳ Khai sáng

Trong Thời kỳ Khai sáng của thế kỷ thứ 17 và 18, rất nhiều nhà tư duy phản biện nhìn nhận tôn giáo là trái ngược với lý lẽ. Đối với họ, thời kỳ Trung Cổ hoặc "Thời kỳ của Đức tin", do đó trái ngược với Thời kỳ của lý lẽ (hay thời kỳ Khai sáng). Kant và Voltaire đã nói ra những lời công kích đến thời kỳ Trung Cổ như một khoảng thời gian tôn giáo khiến cho xã hội suy thoái, trong khi Gibbon trong cuốn "Lịch sử về sự Suy thoái và sụp đổ của đế chế La Mã" đã thể hiện sự miệt thị với "rác rưới của Thời kỳ Tăm tối". Tuy nhiên cũng như Petrarca người mà coi bản thân nằm ở thời kỳ đầu của "thời đại mới", ông đã chỉ trích các thế kỷ trước đó với thời kỳ của mình, một điều tương tự giống với các nhà văn thời kỳ Khai sáng.

Kết quả là, một cuộc cách mạng đã diễn ra theo ít nhất 3 hướng. Phép ẩn dụ cái thiện với cái ác ban đầu của Petrarca đã được mở rộng qua thời gian, ít nhất là một cách gián tiếp. Ngay cả nếu những người theo chủ nghĩa nhân văn không còn coi bản thân đang sống trong thời kỳ tăm tối, thời kỳ của họ cũng chưa đủ khai sáng đối với các nhà văn thế kỷ thứ 18, những người coi bản thân đã được sống trong Thời kỳ Khai sáng thật sự, trong khi thời kỳ này được quy kết là kéo dài đến tận thời kỳ Cận Đại. Theeo vào đó, ẩn dụ về cái ác của Petrarca mà ông chủ yếu sử dụng để thể hiện sự tiếc nuối về sự thiếu các thành tựu phi tôn giáo đã được làm sâu sắc hơn để đề cập đến ý nghĩa chống lại tôn giáo và mục sư rõ ràng hơn.

Dù sao thì, thuật ngữ "Thời kỳ Trung Cổ", sử dụng bởi Biondo và những người theo chủ nghĩa nhân văn sau Petrarca, nhìn chung đã được sử dụng trước thế kỷ 18 để mô tả thời kỳ trước thời kỳ Phục Hưng. Các ghi chép sớm nhất sử dụng từ "trung cổ" bằng tiếng Anh là vào năm 1827. Khải niệm về Thời kỳ Tăm tối cũng được sử dụng, nhưng đến thế kỷ 18, khải niệm này thường được giới hạn trong phần trước đó của thời kỳ này. Những bước đầu định nghĩa "Thời kỳ Tăm tối" trong từ điển Oxford có tham khảo đến cuốn "Lịch sử về Nền văn minh tại Anh" vào năm 1857 của Henry Thomas Buckle. Có nhiều ngày bắt đầu và kết thúc thời kỳ khác nhau: một số coi thời kỳ này bắt đầu vào năm 410, theo một số khác là vào 476 khi mà không còn hoàng đế tại Rôma, và kết thúc vào năm 800 tại thời điểm thời kỳ Phục Hưng Carolingian dưới thời hoàng đế Charlemagne hoặc nhiều quan điểm cho rằng nó kéo đài đến tận cuối thiên niên kỷ thứ nhất.

Chủ nghĩa Lãng Mạn

Vào cuối thế kỷ thứ 18 và đầu thế kỷ thứ 19, các nghệ sỹ theo chủ nghĩa Lãng mạn đã thay đổi những đánh giá tiêu cực của những nhà phê bình thời kỳ Khai sáng theo mốt Trung cổ. Từ "Gothic" đã coi là thuật ngữ của sự sỉ nhục giống như "Vandal" cho đến khi  một vài người Anh theo trường phái Gothic vào giữa thế kỷ 18 như Horace Walpole đã phát động phong cách Phục hồi Gothic - Gothic Revival trong nghệ thuật. Điều này đã thúc đẩy sự quan tâm đến thời kỳ Trung cổ mà đối với thế hệ sau này đã mang một hình ảnh "Thời kỳ Đức tin" bình dị. Chính điều này, đáp trả một thế giới thống trị bởi chủ nghĩa khai sáng duy lý, đã thể hiện quan điểm lãng mạn về Thời kỳ Hoàng kim của hiệp sĩ. Thời kỳ Trung cổ đã được xem xét với sự hoài niệm như một thời kỳ hòa hợp giữa xã hội và môi trường, sự truyền cảm hứng về tôn giáo, đối lập với sự quá độ của Cách mạng Pháp và hơn hết là đối lập với sự chuyển dịch về xã hội và môi trường và thuyết vi lợi của Cách mạng công nghiệp đang phát triển. Quan điểm lãng mạn vẫn xuất hiện trong các ngày hội chợ, lễ hội đương đại để kỷ niệm thời kỳ đó với những sự kiện và trang phục vui tươi.

Như Petrarca đã đảo lộn ý nghĩa của cái thiệncái ác, do đó những người theo chủ nghĩa lãng mạn đã đảo lộn những định kiến về Thời kỳ Khai sáng. Tuy nhiên, thời kỳ mà họ lý tưởng hóa lại hầu như nằm ở Giai đoạn giữa Trung Cổ cho đến thời kỳ Cận đại. Theo một khía cạnh, điều này xóa bỏ mặt tôn giáo về phán xét của Petrarca bởi do trong các thế kỷ sau này, quyền lực và uy thế của Nhà thờ đang ở đỉnh cao. Đối với nhiều người, phạm vi của Thời kỳ Tăm tối đã trở nên tách biệt khỏi thời kỳ này, chủ yếu hàm ý các thế kỷ ngay sau khi sự sụp đổ của Rôma.

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thời_kỳ_Tăm_tối_(sử_học) http://web.maths.unsw.edu.au/~jim/renaissance.html http://www.merriam-webster.com/dictionary/Dark%20A... //doi.org/10.2307%2F2856364 //www.jstor.org/stable/2856364 http://www.vietcatholic.org/News/Html/119638.htm https://books.google.com/books?id=4XxzlEQPwMIC https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/lam-chung-gian-va... https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/nhung-ngo-nha... https://jameshannam.com/index.htm https://archive.org/details/barbarianstoange00well